Mạch Sống Online
· Truyền Thông Mạch Sống
· Trang Nhà BPSOS
· Chống Nạn Buôn Người


Chuyên Mục

:: HÃY CỨU CỒN DẦU
:: ĐÒI TÀI SẢN
:: NGÀY VẬN ĐỘNG CHO VN

40 Năm Tị Nạn
An Toàn Lao Động
Bạo Hành Gia Đình
Chống Nạn Buôn Người
Chủ Quyền Quốc Gia
Cứu Trợ Thiên Tai
Di Dân & Nhập Tịch
Định Cư Nhân Đạo
Lịch Sử Qua Lời Kể
Mái Ấm Gia Đình
Nhân Quyền
Nhân Vật Trong Tháng
Phát Triển Cộng Đồng
Quan Điểm
Sống Đẹp
Sức Khoẻ
Tài Chánh
Tị Nạn
Thế Hệ Trẻ
Thư Toà Soạn
Tin Cập Nhật
Tin Sinh Hoạt
Tin Trang Nhất
Tin Tức Thời Sự
Truyện Ngắn
TPP
Tuổi Hạc
Tù Nhân Lương Tâm
Tự Do Tôn Giáo
Văn Khố Thuyền Nhân
Xoá Bỏ Tra Tấn

Chức Năng Thông Dụng
· Đọc Theo Chủ Đề
· Đọc Theo Số Báo
· Ghi Danh vào Email List
· Quảng Bá Mạch Sống
· Top 15
· Ý Kiến Độc Giả
· Liên lạc tòa soạn
· Gửi bài cho Mạch Sống
· Phiếu Đóng Góp
· Census 2010
· Tìm kiếm

Ghi Danh Nhận Tin
Ghi Danh Nhận Bản Tin Mạch Sống
Tìm Kiếm


Hit Counter
We received
27809562
page views since June 01, 2005
MS103 - 02/11: Bến Đình Làng (phần 2)

Truyện Ngắn

Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích

(xem phần 1)

Năm nào cũng vậy, chúng tôi vui hưởng ba ngày Tết nhưng vẫn nôn nao mong chờ đến ngày giỗ ông ngoại. Ðó là ngày họp mặt bà con bên ngoại mỗi năm một lần đã kết chặt tình yêu thương của toàn thể anh chị em. Khi lớn lên kẻ góc biển, người chân trời lưu lạc khắp nơi nhưng đến ngày mồng Chín tháng Giêng, đàn cháu của ngoại không tránh khỏi lòng rưng rưng khi nhớ về cảnh cũ người xưa!

Rồi một hôm, bến đò làng tôi chứng kiến cảnh hãi hùng. Buổi sáng mùa thu năm 1945, sau ngày Việt Minh khởi nghĩa cướp chính quyền (19/8/45), trời chưa sáng tỏ mặt đất, dân làng tôi được lệnh đình công bãi thị. Tất cả phải tập trung về tại bãi Xoang để dự phiên Tòa Nhân dân khởi tố “tên Ðịa chủ cường hào”. Khi mặt trời lên quá cây sào, đội tự vệ áp giải cha con ông Phan Quang Thao đến địa điểm đã đông nghẹt dân làng. Trên bãi Xoang cạnh bến đò đã đóng sẵn hai cây cọc chỉ cao trên tầm thắt lưng. Họ ấn hai nạn nhân quì xuống rồi quấn chặt dây thừng quanh người vào cọc.



Một người đàn ông nhỏ thó, khuôn mặt loắt choắt tiến ra trước đám đông đọc bản cáo trạng lên án ông Tú Thao là một đại điền chủ gian ác bóc lột tá điền, cậy quyền hiếp đáp đồng bào. Người con trai cả Phan Quang Trì là Việt gian thân thiện với Pháp và Nhật. Ủy ban khởi nghĩa tuyên bố hai cha con ông Tú có tội với cách mạng, với nhân dân. Cả rừng người im thin thít. Ðột nhiên, lão ta la lớn:

“ Ðồng bào tha hay g.i.ế.t?”

Tiếng "g.i.ế.t" sau cùng kéo dài là ám hiệu dứt mạng sống của hai nạn nhân. Cả pháp trường như chết lịm. Bỗng có tiếng “g-i-ế-t, g-i-ế-t” của một người nào đó giữa đám đông vang lên đã lôi cuốn lượng sóng người cùng cất tiếng hô theo:

“G-i-ế-t, g-i-ế-t”

“Cách mạng” thường hay dùng cò mồi để làm nhân tố kích thích tâm lý quần chúng. Chẳng một ai dám lên tiếng ngược lại lời hướng dẫn của cò mồi. Tên loắt choắt kia là hiện thân của “thẩm quan địa ngục” và bọn “cò mồi” là “quỷ sứ ngưu đầu mã diện”.

Một đao phủ không biết từ đâu xuất hiện. Ðầu trùm một bao vải màu đen, đôi mắt đỏ ngầu hiện ra sau hai lỗ tròn. Hắn cầm một thanh mã tấu sáng lấp loáng dưới ánh mặt trời bước đến phía sau nạn nhân, hai chân đứng thế trung bình tấn. Bất thần, tiếng hét vang lên “sát!”. Người ta chỉ thấy một đường sáng trắng đi vào gáy ôâng Tú Thao. Lưỡi đao cắt ngọt chiếc cổ trắng ngần, đầu nạn nhân văng ra xa, máu phụt lên thành vòi. Máu nhuộm đỏ cả bộ bà ba trắng nạn nhân đang mặc. Máu tưới đỏ cả một vùng cát rộng. Dân chúng khiếp sợ, kẻ bịt mắt, người bụm miệng nôn thốc, nôn tháo.

Ðến phiên người con, đao phủ có lẽ yếu tay nên phải chém đến hai lần. Ðầu ông Ðại Hào Trì vẫn còn dính lớp da cổ treo lủng lẳng trước ngực. Cái cổ bày ra những sợi gân bầy nhầy trắng hếu. Có một điều khiến cho đám đông ngạc nhiên là không có giọt máu nào chảy ra. Người ta thầm thì: “Ông Trì lên cơn đau tim lại sợ quá nên tắt thở truớc khi bị hành quyết!” Dù chưa đạt được nghệ thuật chém treo ngành như nhà văn Nguyễn Tuân miêu tả, nhưng tên đao phủ đã thể hiện bản lãnh giết người chuyên nghiệp.

Lần đầu tiên, làng tôi, mảnh đất của những người nông dân hiền lương, chất phác suốt mấy mươi đời lấy nghĩa tình đối đãi với nhau giờ đây phải chứng kiến cảnh tàn bạo sắt máu tưởng chừng như một cơn ác mộng!

Những ngày tháng sau đó, ủy ban khởi nghĩa quê tôi giam giữ chí sĩ Ngô Ðình Diệm, và nhà cách mạng Ðệ tứ Tạ Thu Thâu tại nhà ông Tú Thao, cơ quan của ủy ban Cách mạng lúc bấy giờ. Chỉ một thời gian ngắn họ đưa ông Tạ Thu Thâu qua đò làng tôi rồi giết ông ấy bên kia sông trên đất quê ngoại tôi. 

Không biết lý do nào họ không giết cụ Diệm nên được thoát chết ngày đó. Mặt nước sông Trà cũng phải rùng mình nổi sóng. Bờ tre như cúi mình thấp hơn để tiển đưa những oan hồn ra đi trong hoang lạnh. Lũ trẻ không còn ngụp lặn nô đùa nơi bến sông. Và khách kêu đò về đêm cũng bặt tiếng. Hai chiếc đầu của nạn nhân và máu nhuộm đỏ bến đò là hình ảnh kinh hoàng đã khắc sâu trong ký ức của tuổi thơ tôi đến tận bây giờ.

Khi trưởng thành, tôi ngẫm nghĩ về khoa địa lý phong thủy mà ông thầy Tàu đã giải đoán. Tôi càng thấy thấm thía vô cùng. Người ta nói Quảng Ngãi là đất địa linh nhân kiệt nhưng làng tôi có hai ngọn gió kết hợp với hai luồng nước đổ về đầu làng tạo thành vực xoáy tích tụ Tàng phong là hai mặt xấu trong môn Phong thủy khiến cho hung thầân quỷ dữ ẩn trú, thường xuyên tác hại gây biết bao đau thương cho dân làng.

Quê tôi từ đây thuộc vùng Liên Khu 5 Việt Minh chiếm giữ chạy suốt chiều dài 4 tỉnh: Nam, Ngãi, Bình, Phú. Miếu thờ bị đập phá, ngôi đình làng bỏ hoang phế không người chăm sóc. Núi Cấm làng tôi trở thành nơi hoang vu vắng bước chân người. Cây đa cổ thụ già nua rễ mọc từ trên cao buông dài tua tủa như người đàn bà xõa tóc sầu muộn bên sông.

Ðồn Komplong do quân Pháp trấn đóng giáp ranh hai tỉnh Quảng Ngãi và KonTum như ngọn giáo thường trực đâm vào yết hầu Liên Khu Năm. Ngày đầu mùa thu năm 1952, bến đò làng tôi bỗng nhiên tấp nập người là người. Bộ đội và dân công lũ lượt qua sông bằng hàng chục chiếc ghe trưng dụng. Ðó là những đêm điều quân của Bộ tư lệnh Liên Khu với hai sư đoàn cùng với lực lượng địa phương thuộc hai tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Nam chuẩn bị tấn công đồn Komplong. Trong suốt nửa tháng trời họ bí mật vận chuyển lương thực, đạn dược súng ống tiến về hướng tây nam Quảng Ngãi thuộc các huyện giáp ranh với Kontum.

Qua mấy ngày công đồn, kết quả Việt Minh chiếm được đồn, nhưng hai bên đều bị tổn thất nặng nề. Bệnh viện không đủ chỗ chứa. Quê ngoại tôi, nhà nào cũng biến thành một “quân y viện bỏ túi”.

Ngày Tết đã gần kề, tôi theo chân anh nuôi bộ đội sang sông thăm đồng đội của anh bị thương đang nằm điều trị tại quân y viện. Nhân dịp này, tôi ghé thăm  Ngoại và mang cho bà ít thức ăn của mẹ tôi bới. Ðã từ lâu, ngày Tết, ngày giỗ huy hoàng của Ngoại tôi không còn nữa.

Khi trở về, chúng tôi qua chuyến đò An Mỹ. Ðò đến giữa sông, chợt hai khu trục cơ của quân Pháp bay dọc theo bờ sông đột nhiên đảo lại. Theo kinh nghiệm, anh bộ đội đoán biết máy bay sẽ bắn đò, liền hối thúc mọi người rời bỏ đò.  Một khắc sau, những loạt đạn đại liên từ trên máy bay thay nhau bắn xối xả vào chiếc đò trôi lềnh bềnh giữa sông. Ðây là mục tiêu không thể bỏ qua khi tình báo Pháp biết được Việt Minh đã dùng tuyến đường này để chuyển quân đánh đồn Komplong. Bị trúng đạn, đò chìm, oanh tạc cơ bỏ đi. Ðồng bào ùa ra sông tiếp cứu. Hậu quả đau đớn là hai người phụ nữ còn lại trên đò tử thương. Ông lái đò mất tích đến hai ngày sau xác ông mới nổi lên trôi tấp vào bờ, cuối bãi dâu.

Hình ảnh ông lái đò có nụ cười móm mém tận tụy đưa khách sang sông dù là đêm đông lạnh giá hay trưa hè nắng gắt, cái sạp tre nằm đợi khách gọi đò về đêm lên nước láng bóng dưới mái lều đã khiến cho lòng tôi ngậm ngùi mỗi lần qua đó. Nước vẫn trôi, đò vẫn đưa nhưng ông lái đò xưa không còn nữa. Con đò bây giờ đối với tôi trông lạc lõng, vô tình như những ánh mắt của người chèo đò trong tổ hợp hiện giờ do chính quyền địa phương cắt cử . Họ lấm lét, xoi mói, dò xét để phát giác gián điệâp của địch qua sông .Vẫn chống vẫn chèo nhưng trái tim họ chẳng hề gắn bó với chiếc đò, với bến sông. Khác xa với ông lão, ánh mắt lúc nào cũng nồng ấm chan chứa tình dành cho khách đi đò và gởi cả hồn ông trong mỗi nhịp chèo khuấy nước hòa cùng nhịp đập trái tim mình. Trái tim đầøy ắp tình người mênh mông, êm ả như nước sông lặng lờ trôi.

Lòng ông lái đò cũng cuồn cuộân buồn nhớ theo từng con nước đục ngầu trong mùa nước lụt đổ về dâng tràn ngăn cách đôi bờ khiến cho con đò ông bất lực trước sức cuốn xô tàn bạo của con nước nguồn. Con đò và bến sông đã gắn chặt cả cuộc đời lão. Ông yêu nó và vĩnh viễn không xa rời nó như người thuyền trưởng giữ đúng trách nhiệm của mình nhất định không bỏ thuyền khi gặp nạn và ông đã chết theo con đò.

Hiệp Ðịnh Geneve 1954 chia đôi đất nước, nền tự do được phục hồi trên toàn cõi Miền Nam. Dân hai bên bờ sông thương tiếc ông lái đò đã tự động lập miễu thờ trên bờ sông. Ông xứng đáng là vị Thần Hoàng của bếân sông này. Mỗi lần qua sông thăm Ngoại là mắt tôi rưng rưng khi thấy miễu thờ ông lái đò khói hương lên nghi ngút. Hàng ngày khách qua đò không quên ghé vào miễu đốt nén hương để tưởng nhớ người lái đò đã chết theo chiếc đò như người cha đã hy sinh để bảo vệ và che chở đứa con yêu của  mình. Có người đã chứng kiến, ngày đó, ông lái đò lặn xuống nước cố đẩy con đò tấp vào bờ để tránh đạn nhưng chẳng may đạn của máy bay bắn xuyên qua thuyền trúng vào đầu ông. Thân xác ông lão chèo đò không còn hiện hữu trên cõi đời này, nhưng linh hồn ông hẳn còn lẩn quất bến sông xưa và hình bóng ông vẫn còn lưu mãi trong lòng tôi.

Posted on Friday, February 25 @ 19:43:55 EST by ngochuynh
 
Related Links
· More about Truyện Ngắn
· News by ngochuynh


Most read story about Truyện Ngắn:
Nói Chuyện Về Ca Dao Tục Ngữ Việt Nam

Article Rating
Average Score: 5
Votes: 1


Please take a second and vote for this article:

Excellent
Very Good
Good
Regular
Bad

Options

 Printer Friendly Printer Friendly

 
Copyright 2005 by MachSong, Inc.
PHP-Nuke 2004 by Francisco Burzi
Mach Song Online.
Publisher: Nguyen Dinh Thang