Công Ty Làm Ăn Chộp Giật, Nhà Nước Quản Lư Kém
CAMSA - ngày 01/03/2011
LTS: Dưới đây là những nhận xét về hoạt động của các chủ thể trong lĩnh vực xuất khẩu lao động Việt Nam - người lao động, công ty XKLĐ, Nhà nước Việt Nam.
1. Người lao động
T́nh trạng người có nhu cầu đi làm việc ở nước ngoài bị các cá nhân hoặc doanh nghiệp không có chức năng lừa đảo để đi làm việc ở nước ngoài vẫn là vấn đề bức xúc trong dư luận xă hội, được phản ánh trên các phương tiện thông tin đại chúng. Hiện tượng này chủ yếu xảy ra ở các tỉnh miền Bắc và miền Trung, hầu hết nạn nhân là người lao động nghèo, thiếu thông tin, đi qua môi giới, trung gian.
Phần lớn lao động đi làm việc ở nước ngoài sống ở nông thôn, hoàn cảnh kinh tế khó khăn, mức sống trung b́nh, nghèo, nên tŕnh độ học vấn thấp, chưa qua đào tạo nghề, không có ngoại ngữ, ư thức kỷ luật, tác phong lao động công nghiệp và sức khỏe hạn chế. Một bộ phận lao động chưa chú tâm t́m hiểu kỹ pháp luật, thông tin về thị trường lao động, chưa nghiên cứu kỹ các nội dung hợp đồng kư kết trước khi đi, chỉ mong được đi nhanh, rút ngắn thời gian đào tạo, sẵn sàng mất tiền qua trung gian, “c̣ mồi” để ra nước ngoài; trong quá tŕnh lao động ư thức kỷ luật kém, chưa chấp hành đầy đủ quy định pháp luật, thiếu tôn trọng phong tục, tập quán của nước sở tại… T́nh trạng lao động bỏ trốn, phá hợp đồng ra ngoài làm việc, nấu rượu lậu, đánh bạc, đánh nhau, trộm cắp…
2. Hoạt động của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động
Các doanh nghiệp thực hiện chưa nghiêm quy định của pháp luật về tổ chức, quản lư quá tŕnh đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp, chi nhánh chưa thực hiện hoặc thực hiện không tốt, không đầy đủ chế độ báo cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhất là việc thông báo những vấn đề liên quan đến người lao động với cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài.
Công tác đầu tư, đào tạo nghề, giáo dục định hướng của không ít doanh nghiệp thiếu kỹ lưỡng, có tính h́nh thức, chưa bảo đảm chất lượng, việc bổ túc tay nghề, ngoại ngữ cho người lao động chưa đảm bảo yêu cầu, chỉ dừng lại ở việc giáo dục định hướng, trang bị bước đầu một số kỹ năng nghề, đáp ứng yêu cầu trước mắt của doanh nghiệp.
Tŕnh độ của đội ngũ cán bộ hạn chế, nhất là các doanh nghiệp hoạt động đa ngành chưa quan tâm đầy đủ đối với tổ chức chuyên hoạt động đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài. Hợp đồng cung ứng lao động có ư nghĩa quyết định nhưng chủ yếu qua môi giới, doanh nghiệp không có điều kiện t́m hiểu đầy đủ về đơn vị tiếp nhận lao động nên chất lượng hợp đồng cung ứng lao động chưa bảo đảm. Việc đăng kư hợp đồng cung ứng lao động vẫn c̣n vi phạm dưới nhiều h́nh thức khác nhau như: không đăng kư hợp đồng; tổ chức thực hiện hợp đồng trước khi đăng kư; đưa lao động đi nhiều hơn số lượng hợp đồng đăng kư; chưa có chấp thuận của cơ quan quản lư nhà nước vẫn thực hiện hợp đồng. Hợp đồng cung ứng lao động c̣n những nội dung chưa được bảo đảm theo quy định của pháp luật, thiếu rơ ràng về nội dung, nhất là các điều khoản liên quan đến quyền lợi của người lao động.
T́nh trạng cạnh tranh không lành mạnh, giành hợp đồng cung ứng lao động giữa các doanh nghiệp cả trong và ngoài nước dẫn đến giảm quyền lợi, tăng chi phí đóng góp của người lao động vẫn xảy ra mà chưa có biện pháp xử lư hiệu quả; một bộ phận doanh nghiệp được cấp phép hoạt động nhưng không trực tiếp khai thác, t́m kiếm hợp đồng cung ứng lao động, tư vấn, tuyển chọn lao động mà khoán trắng mọi hoạt động từ việc t́m kiếm thị trường, thực hiện hợp đồng cung ứng lao động cho chi nhánh hoặc trung tâm trực thuộc trong khi quản lư không chặt chẽ hoạt động thực sự của chi nhánh, trung tâm; tuyển chọn lao động thông qua môi giới, liên kết tràn lan, triển khai không thống nhất; vẫn c̣n hiện tượng nhân viên doanh nghiệp đi tuyển chọn lao động nhưng lại “chuyển” lao động tuyển được cho doanh nghiệp khác để nhận hoa hồng và t́nh trạng doanh nghiệp dồn người lao động vào thế bị động khi kư kết hợp đồng trước khi ra nước ngoài làm việc, có những nội dung giữa thực tế và kư kết không theo hợp đồng và phần thiệt hại chủ yếu thuộc về người lao động.
3. Chính sách của Nhà nước Việt Nam
Việc ban hành các văn bản để cụ thể hóa, hướng dẫn thi hành Luật đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài 2006 chậm so với yêu cầu; một số quy định của Luật chưa có hướng dẫn hoặc hướng dẫn chưa cụ thể, đầy đủ như: mức trần kư quỹ của người lao động, mẫu và nội dung của hợp đồng cung ứng lao động, hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài phù hợp với từng thị trường lao động; quy định về chính sách hỗ trợ tín dụng cho người nghèo, người dân tộc thiểu số đi lao động ở nước ngoài chưa thống nhất, đồng bộ về mức vay và lăi suất cho vay.
Chưa tích cực trong xây dựng chính sách để tổ chức thực hiện một số quy định của Luật như: hỗ trợ đào tạo cán bộ quản lư, dạy nghề, ngoại ngữ cho người lao động; khuyến khích đưa nhiều lao động có tŕnh độ chuyên môn, kỹ thuật đi làm việc ở nước ngoài có thu nhập cao; đi làm việc tại các công tŕnh, dự án do doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong nước trúng thầu, nhận thầu, đầu tư ở nước ngoài; chính sách hỗ trợ sau khi người lao động về nước; chính sách đầu tư của nhà nước đối với cơ sở dạy nghề tạo nguồn lao động đi làm việc ở nước ngoài, h́nh thành một số trường dạy nghề đủ điều kiện đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động theo quy định dạy nghề gắn với việc đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Bên cạnh đó, quy định chế tài xử lư vi phạm, xử phạt chưa đủ mạnh và khó có thể thực hiện đối với cơ quan đại diện ngoại giao, lănh sự Việt Nam ở nước ngoài…
Việc quản lư, sử dụng và thực hiện chính sách đối với người lao động sau khi về nước chưa được quan tâm. Mặc dù Luật đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài 2006 đă quy định hỗ trợ việc làm và khuyến khích tạo việc làm đối với lao động sau khi về nước, song Việt Nam chưa có chính sách hỗ trợ đối với nhóm đối tượng này, chưa có chính sách khuyến khích người lao động và gia đ́nh họ đầu tư sản xuất, kinh doanh, sử dụng hiệu quả thu nhập có được từ việc đi lao động ở nước ngoài, cũng như thông tin và hướng dẫn họ đăng kư t́m việc làm phù hợp. Phần lớn người lao động về nước phải tự t́m việc làm, tạo việc làm cho ḿnh. Bên cạnh đó, một số tác động xă hội đối với người lao động khi về nước cũng chưa được quan tâm thỏa đáng.
Việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật chưa sâu rộng, c̣n mang tính h́nh thức. Đối tượng tuyên truyền, phổ biến chủ yếu là cán bộ, công chức các cơ quan, các cấp chính quyền, các tổ chức chính trị - xă hội, tổ chức xă hội từ cấp tỉnh đến cấp xă có liên quan đến hoạt động này. Đối với người dân, chủ yếu thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, tờ rơi, tài liệu in ấn khác, ít được phổ biến trực tiếp. Đối với các doanh nghiệp, việc tuyên truyền, phổ biến các quy định pháp luật về lĩnh vực này chỉ nhằm mục đích chính là phục vụ cho tuyển dụng lao động, chưa bảo đảm để người lao động hiểu biết đầy đủ pháp luật nhằm bảo vệ quyền lợi của ḿnh.
Việc thực hiện quy định doanh nghiệp đăng kư để cơ quan quản lư nhà nước chấp thuận hợp đồng cung ứng lao động c̣n hạn chế do thiếu nhân lực, chưa có thông tin đầy đủ ở các thị trường tiếp nhận; việc phối hợp của Bộ Lao động-Thương binh và Xă hội với các cơ quan ngoại giao Việt Nam và các cơ quan liên quan ở các nước trong việc thẩm định hợp đồng đăng kư chưa nhiều.
Công tác phối hợp liên ngành giữa Bộ Lao động-Thương binh và Xă hội, Bộ Ngoại giao, Bộ Công an trong việc cung cấp thông tin, hỗ trợ cho doanh nghiệp khai thác, mở thị trường mới, quản lư doanh nghiệp và người lao động vẫn c̣n những hạn chế cần tiếp tục khắc phục, một số doanh nghiệp phản ánh việc hỗ trợ này của các cơ quan quản lư nhà nước chưa liên tục và chưa cập nhật. Theo báo cáo của Bộ Ngoại giao, các cơ quan đại diện ngoại giao ít nhận được thông tin của các doanh nghiệp đưa người lao động đi làm việc, không có danh sách người lao động để chủ động trong việc thực hiện trợ giúp hay bảo hộ công dân khi cần thiết, chỉ khi xảy ra vụ việc các cơ quan liên quan mới thông báo để tham gia xử lư, giải quyết.
Chưa có sự phân định rơ ràng trong việc bảo hộ công dân nói chung với bảo hộ lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Một số quy định c̣n bất cập trong thực tiễn, gây khó khăn và bất lợi hơn cho người lao động như công dân xuất cảnh theo các trường hợp thông thường nếu xảy ra vụ việc th́ các cơ quan đại diện ngoại giao ở nước ngoài có thể sử dụng ngay Quỹ Bảo hộ công dân để mua vé máy bay, các nhu yếu phẩm tối thiểu... hỗ trợ cho công dân, nhưng đối với người lao động lại phải qua nhiều công đoạn và thủ tục để xác minh từ doanh nghiệp đưa đi, cam kết của Cục quản lư lao động ngoài nước, mất không ít thời gian ... mới có thể sử dụng Quỹ để tạm ứng, giải quyết cho lao động về nước. Một bộ phận lao động nữ đi làm việc ở nước ngoài c̣n bị phân biệt đối xử nhưng việc bảo hộ cũng c̣n hạn chế.
Bộ Lao động-Thương binh và Xă hội là cơ quan thực hiện nhiệm vụ quản lư nhà nước về lĩnh vực người lao động đi làm việc ở nước ngoài nhưng cũng chỉ mới nắm được số liệu cơ bản về lao động đi từ các doanh nghiệp dịch vụ và tổ chức sự nghiệp và giải quyết các sự cố xảy ra, chưa cập nhật được số lượng lao động đi - về, vi phạm hợp đồng, vi phạm kỷ luật, pháp luật. Đối với h́nh thức đi làm việc ở nước ngoài theo trúng thầu, nhận thầu; đầu tư ra nước ngoài, thực tập tay nghề và hợp đồng cá nhân chỉ nắm sơ bộ, chưa đánh giá được đầy đủ hiệu quả. Việc sử dụng và phát huy vai tṛ của Quỹ hỗ trợ việc làm ngoài nước chưa nhiều, yếu và kém hiệu quả. Cho đến thời điểm này, Quỹ mới sử dụng được khoảng trên 5 tỷ đồng.
Công tác thanh tra, kiểm tra và xử lư vi phạm chưa kiên quyết. Số lượng cán bộ thanh tra của Bộ Lao động-Thương binh và Xă hội, Cục quản lư lao động ngoài nước và các Sở Lao động-Thương binh và Xă hội quá ít, hiệu quả hoạt động chưa cao. Việc vi phạm của doanh nghiệp về tổ chức bộ máy; hoạt động của chi nhánh, trung tâm, tổ chức tuyển dụng, đào tạo, giáo dục định hướng, thu phí, tổ chức quản lư người lao động, thực hiện chế độ báo cáo… diễn ra ở rất nhiều nhưng chưa kiểm soát được nên quy định về thu hồi giấy phép, xử lư vi phạm hành chính trong lĩnh vực này không được thực hiện. Trên thực tế, chưa có doanh nghiệp nào bị thu hồi giấy phép theo quy định tại điểm c, khoản 2, Điều 15 của Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài; cũng chưa có trường hợp nào bị xử phạt vi phạm hành chính do người đứng đầu cơ quan đại diện ngoại giao ở nước ngoài thực hiện theo quy định tại Điều 16, Nghị định số 144/2007/NĐ-CP.